Journal Articles - Business and Management - 2019
Permanent URI for this collection
Browse
Browsing Journal Articles - Business and Management - 2019 by Title
Results Per Page
Sort Options
-
PublicationAssessment of financial performance of selected money deposit banks in Nigeria: A ratio analysis approach( 2019)Vũ Minh HiếuThe study assessed and compared the financial performance of Zenith Bank Plc and Guaranty Trust Bank Plc two top banks in Nigeria for the period 2012-2016. Secondary data obtained from the annual reports of the two banks were subjected to statistical computation. Descriptive statistics in form were used to present the results. The findings revealed that Zenith Bank Plc management focused more on liquidity and risk asset quality while Guaranty Trust Bank Plc management emphasized more on profitability. The authors therefore, recommend that the balance/mix of liquidity and profitability objectives is important for the banks to deliver superior financial performance to their shareholders
-
PublicationCác nhân tố tác động đến tổ chức công tác kế toán của các DNNVV trong ngành tư vấn thiết kế xây dựng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh( 2019)Tạ Duy KhánhNghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng nhằm phân tích các nhân tố tác động đến tổ chức công tác kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành tư vấn thiết kế xây dựng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 6 nhân tố ảnh hưởng đến công tác kế toán của các doanh nghiệp này đó là: Các quy định và hướng dẫn pháp lý về kế toán. Việc ứng dụng công nghệ thông tin của doanh nghiệp; thủ tục kiểm soát nội bộ; đặc điểm ngành; nguồn nhân lực bộ phận kế toán; mức độ quan tâm đến công tác kế toán của chủ doanh nghiệp.
-
PublicationCác yếu tố ảnh hưởng đến khách hàng cá nhân khi chấp nhận dịch vụ mobile banking tại TP HCM( 2019)Cao Hùng TấnNghiên cứu xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố: Giá trị chi phí, điều kiện thuận lợi, động lực hân hoan, nhận thức bảo mật, ảnh hưởng xã hội và niềm tin là những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến ý định sử dụng dịch vụ mobile banking. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê của các yếu tố tác động từ cao đến thấp là: điều kiện thuận lợi, động lực hân hoan, giá trị chi phí, nhận thức bảo mật, ảnh hưởng xã hội và niềm tin.
-
PublicationCác yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên tại trường ĐH Phan Thiết tỉnh Bình Thuận.( 2019)Phan Quan ViệtNgày nay, với sự hội nhập quốc tế, xu hướng toàn cầu hóa của tất cả các quốc gia, Việt Nam đang dần chuyển mình theo nền kinh tế thị trường, môi trường làm việc có nhiều thay đổi so với trước đây, nhiều người muốn làm việc độc lập và coi đó là hướng đi thành công của mình. Hiện trạng về giải quyết việc làm cho sinh viên ra trường đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay của Việt Nam nói chung và địa bàn tỉnh Bình Thuận nói riêng. Thực tế, số lượng trường cao đẳng và đại học trên địa bàn tỉnh tăng lên, tính đến nay, toàn tỉnh có 1 trường đại học, 2 trường cao đẳng. Bởi vậy, khởi nghiệp là hướng đi được nhiều bạn sinh viên lựa chọn, tuy nhiên có nhiều bạn trẻ chưa biết phải bắt đầu từ đâu và như thế nào. Vì những lí do trên, tác giả quyết định chọn nghiên cứu đề tài: "Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên tại Trường Đại học Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận".
-
PublicationCác yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của công chức Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh( 2019)
;Phan Quan ViệtĐỗ Sỹ TrungNghiên cứu đã tiến hành kiểm định mô hình 8 yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc công chức, gồm: (1) Công việc ổn định, (2) Thu nhập, (3) Đào tạo và phát triển, (4) Điều kiện làm việc tốt, (5) Lãnh đạo trực tiếp, (6) Hỗ trợ từ đồng nghiệp, (7) Sự tự chủ trong công việc, (8) Văn hóa tổ chức. Sau khi phân tích dữ liệu bằng cách đánh giá độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach's Alpha và phân tích EFA kết quả thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc có tổng cộng 8 nhân tố được rút trích từ 31 biến quan sát. Đưa vào phân tích hồi quy tuyến tính bội, thì 6 yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc công chức Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, gồm: công việc ổn định (OD), thu nhập (TN), đào tạo và phát triển (PT), lãnh đạo trực tiếp (LD), hỗ trợ từ đồng nghiệp (DN), văn hóa tổ chức (VH), với mức ý nghĩa quan sát Sig. <0.05. -
PublicationCho vay ngang hàng tại Việt Nam và một số vấn đề đặt ra( 2019)Nguyễn Ngọc ChánhBên cạnh các hình thức hỗ trợ tài chính truyền thống từ các ngân hàng hay của các tổ chức tài chính dành cho cá nhân và doanh nghiệp, hiện nay, một mô hình với cách thức đầu tư mới đã được hình thành và hoạt động khá hiệu quả trên thế giới là mô hình kết nối đầu tư ngang hàng, còn gọi là cho vay ngang hàng. Nghiên cứu này khái quát việc hình thành và phát triển hoạt động cho vay ngang hàng hiện nay, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển thị trường cho vay ngang hàng tại Việt Nam.
-
PublicationComposition of the first principal component of a stock index — A comparison between SP500 and VNIndex( 2019)
;Q. NguyenN.K.K. NguyenWe analyzed the components of the eigenvector corresponding to the largest eigenvalue of a cross-correlation matrix of stock price change (the 1st eigenvector) using the Principle Components (PCs) analysis method. We found that the components of the 1st eigenvector are not uniformly distributed. In fact, they are proportional to the correlations of individual stocks and the 1st PC, and could be negative if the corresponding stock is ""in average"" negatively correlated to other stocks. By analyzing data from the world stock index in a developed country (SP500) and an emerging one such as Vietnam (VNIndex) from 2013 to 2017, we found negative components in the 1st eigenvector in the VNIndex (and their distribution is also broader than that of SP500). Furthermore, we found that the largest components correspond to stocks of financial services (brokerage or investment advisory firms) firms in both indices. Those stocks are found to be center hubs in a Minimum Spanning Tree (MST) analysis and play an important role whenever a systemic breakdown happens. Finally, we found a phenomenological linear dependence between the components of the 1st eigenvector and the average stock correlation in both indices, and derived an approximation of this dependency using empirical stylized facts of the data. This result provides an estimation of how the PC1 is composed -
PublicationDeterminants of level of taxation: An empirical study of OECD countries from 2006 to 2016( 2019)Nguyễn Phương LiênThe paper provides an empirical examination of the determinants of tax level (tax-to-GDP ratio)among OECD member countries from 2006 to 2016. Conventional regression studies of tax leveltend to focus on two sets of factors: structural (such as GDP per capita, output share ofagriculture, age dependency ratio, etc) and institutional (such as corruption, political stability, etc).The present paper employs a different approach that emphasises the role of tax policy and taxadministration in explaining tax level in developed countries. More specifi cally, it seeks todetermine the quantitative impacts of tax rate, tax compliance burden, governance, level ofeconomic development and trade openness on tax level of OECD member countries. The paper ismotivated by different considerations. First, there seems to be a lack of tax level studies focusingon developed countries. Secondly, and more importantly, most, if not all, of the determinants of taxlevel in previous studies are typically beyond the control of tax authorities, at least in the short run.It thus seems useful to include factors that are under the direct or indirect control of the taxauthorities. To this end, we note that proxies of tax rate and tax compliance burden are nowavailable in a consistent and comparable basis from the PwC and the World Banks' paneldatabase. The OECD is chosen because it is a set of developed countries with generallycomparable tax systems, especially those belonging to the European Union. Further, the OECDprovides a wide range of consistent and reliable data of member countries. The period of studyfrom 2006 to 2016 represents the longest and most recent period in which required data isavailable and comparably reliable. The dataset thus consists of 32 OECD member countries (fourcountries are excluded due to data unavailability) extending over an 11-year period from 2006 to 2016.
-
PublicationDividend policy and earnings quality in Vietnam( 2019)Bùi Kim PhươngPurpose – The purpose of this paper is to examine the relationship between dividend policy and earnings quality of Vietnamese listed firms. Design/methodology/approach – The sample includes firms listed on Vietnam stock exchange during the period between 2010 and 2016. Two measures of earnings quality are the annual firm-specific absolute value of residuals from Dechow and Dichev’s (2002) model and from Dechow and Dichev (2002) as modified by McNichols’s (2002) model. The firms’ dividend policy is captured by dividend paying status. This is a dummy variable that takes the value of 1 if the firm pays dividends and 0 otherwise. In addition, dividend yield and dividend payout ratio, which are continuous variables, are also used in this paper as alternative proxies for dividend policy. Findings – Using panel data analysis, this paper documents that dividend payers have higher earnings quality than dividend non-payers. Dividends are an indicator of earnings quality. These findings are consistent with prior studies. After controlling for variables that may be related to earnings quality as well as for the year and industry fixed effects, this relation remains unchanged. In addition, this result is also robust after controlling for firm fixed effects. Originality/value – This paper offers the empirical evidence on the relation between dividend policy and earnings quality in Vietnam, which is a frontier market.
-
PublicationDynamic topology and allometric scaling behavior on the Vietnamese stock market( 2019)
;Q. Nguyen ;N.K. K. NguyenL.H. N. NguyenThe impact of the Vietnamese financial crisis during 2011–2012 into the stock market was revealed by a structural change of the minimum spanning tree (MST) constructed from the daily stock price. We found that the MST has a star-like structure during this period, similar to that of the German market during the worldwide financial crisis of 2007–2008 (M. Wiliski et al., 2013), and a hierarchical scale-free structure for the rest of time. In addition, we investigate the market from a complex network perspective by analyzing the allometric scaling behavior. We found that all networks have the allometric scaling property, with exponent η ranging from 1.213±0.013 during the financial instability period to about 1.357±0.011 in normal time. These values correspond to a complex “dimension” of the financial market of between 3 and 5, which need to be further investigated in the future. -
PublicationExploring strategic management practices: Case study of 4 mobile telecommunication operators in Nigeria; EMI( 2019)Vũ Minh HiếuThis study examined strategic management practices in mobile telecommunication firms in Nigeria. The authors used case study and descriptive research approach to explore the subject. A survey was conducted to obtain information from employees of four mobile telecommunication firms operating in Nigeria. Our results suggest that vision, mission, strategic analysis, and establishing long-term objectives are important factors for successful strategy formulation in the mobile telecommunication firms in Nigeria. The results suggest that organisational policies, financial resources, employee commitment to strategy implementation, human resources, and organisational structure are important strategy implementation practices in sample firms. However, we observed that organisational structure/governance model is not appropriate to support strategic initiative of one of the mobile operators. The study shed light on different strategic analysis tools used by the firms. It was also observed that strategy evaluation practices are important to achieve business success. Recommendation and suggestions for further research are proposed.
-
PublicationFactors affecting the decision on customers’random purchase at Co.opmart supermarket in hochiminh city, Vietnam( 2019)Phan Quan ViệtIn the current trends, consumers have formed habits of buying at supermarkets. In addition to the purpose of buying goods according to the determined demand, customers who go to supermarkets also relax and entertain themselves out of the modern supermarkets. A restaurant system and play area, even cinemas are also built in the supermarket area. Therefore, many customers will appear their random purchase behavior when they are in the supermarket with many different causes. Random purchase behavior is considered as an important, popular and hot phenomenon in the context of the current rich commodity economy. Currently, customers' random purchase behavior - especially in supermarkets, is a study which has attracted a great deal of attention from researchers around the world over the years. They have also argued that it is an essential factor of life and that almost consumers have at least once committed this behavior. This is the suggestion for the author to choose the content: "Factors affecting the decision on customers’ random purchase at CoopMart supermarket in HCMC.
-
PublicationFACTORS AFFECTING THE SATISFACTION OF BUSINESSES USING ONLINE TAX PAYMENT SERVICES AT THE TAX DEPARTMENT OF HO CHI MINH CITY, VIETNAM( 2021)
;Huu Tran Ai ;Hong Mai Thi DaoThanh Vinh BuiCustomer satisfaction forms the foundation of any business success, as it leads to service reuse, brand loyalty and positive word of mouth. This study has been conducted as a survey. Convenient sampling method has been applied on a sample of 300 enterprises that have been using online tax payment services of the Tax Department of Ho Chi Minh City. The research model parameters include: (1) Information and system quality, (2) Time efficiency, (3) Confidentiality of information and transactions, (4) Support service / customer service, (5) Helpful awareness, (6) Trust in tax authorities. The results show that confidentiality of information and transactions has the strongest impact. Trust in tax authorities and Helpful awareness impact goes second. Next is time efficiency and support service/customer service. Finally, the Information and system quality is ranked the last one since it has the lowest beta coefficient. -
PublicationFactors affecting the taxpayers satisfaction to support service quality in Hochiminh city( 2019)
;Nguyễn Thị Bích VânTrương Thị NgânIn the recent years, services to support taxpayer have been paid more attention and become a focusing by the State, the business as well as the people. Since 2014, alongside with applying information technology, contents and methods for taxpayers support in Ho Chi Minh City are a wider and more abundant variety. These positive changes help to propagate and support taxpayers with certain successes, such as more tax collection and more active taxpayers. The paper discusses on factors affecting the taxpayer’s satisfaction to support service quality in Ho Chi Minh City and proposes solutions to improve the quality of services to support taxpayers at the Tax departments in this City. -
PublicationGiải pháp nâng cao chất lượng nhân viên tài chính Kế toán( 2019)
;Nguyễn Thị Bích Vân ;Nguyễn Ngọc Kim NgânTrương Phương ThảoTrên cơ sở nghiên cứu tác động của chương trình đào tạo kế toán quốc tế của Hiệp hội Kế toán viên công chứng Anh (ACCA) tới chất lượng làm việc của các nhân viên tài chính - kế toán, các tác giả đưa ra khuyến nghị cho các nhà quản lý doanh nghiệp, các đơn vị đào tạo các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao hiệu quả công việc cho nhân viên kế toán. Nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, với 170 mẫu được thu thập từ các nhân viên đang làm việc trong lĩnh vực tài chính - kế toán tại các doanh nghiệp trong khu vực TPHCM và có tham gia học chương trình đào tạo kế toán quốc tế ACCA, cùng với mô hình hồi quy tuyến tính được ước lượng theo phương pháp Enter. -
PublicationKết hợp mô hình M-Score Beneish và chỉ số Z-Score để nhận diện khả năng gian lận báo cáo tài chính( 2019)Phạm Thị Mộng TuyềnTiếp tục kế thừa các nghiên cứu trước, tác giả tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đề tài về gian lận báo cáo tài chính (BCTC) với mục tiêu nhận diện những biến độc lập có khả năng phát hiện gian lận báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE). Tác giả đa tiến hành thu thập 450 BCTC của 150 công ty thuộc các nhóm ngành khác nhau được niêm yết trên HOSE. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, sáu biến độc lập có ảnh hưởng đến khả năng gian lận BCTC đó là chỉ số phải thu khách hàng trên doanh thu thuần (DSRI), chỉ số lợi nhuận gộp biên (GMI), chỉ số chất lượng tài sản (AQI), chỉ số đon bẩy tài chính (LVGI), hệ số nguy cơ phá sản (Z-Score) và biến phát hành cổ phiếu trong năm
-
PublicationMối quan hệ giữa cảm tính nhà đầu tư và chính sách cổ tức: Bằng chứng tại Việt Nam( 2019)
;Nguyễn Thị Ngọc TrangBùi Kim PhươngBài báo nghiên cứu mối quan hệ giữa cảm tính nhà đầu tư và chính sách cổ tức của công ty. Sử dụng dữ liệu của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn 2009–2017, nghiên cứu cho thấy nhà quản lý không nuông chiều sự ưa thích cổ tức của nhà đầu tư khi ra quyết định chi trả cổ tức. Như vậy, bằng chứng thực nghiệm này không ủng hộ lý thuyết nuông chiều nhà đầu tư về cổ tức do Baker và Wurgler (2004) đề xuất. Kết quả nghiên cứu vẫn không thay đổi với các đại diện khác của chính sách cổ tức cũng như với nhiều mô hình hồi quy khác nhau. -
PublicationNghiên cứu các nhân tố tác động đến tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong môi trường ERP tại các doanh nghiệp LOGISTICS TP.HCM( 2019)Tạ Duy KhánhERP (Enterprise Resource Planning) - hệ thống hoạch định nguồn nhân lực là một giải pháp quản trị hiện đại. ERP rất sớm đã trở thành biểu tượng của một thay đổi mang tính cách mạng trong phương thức vận hành của công ty. Tổ chức hệ thống thông tin kế toán trên môi trường ERP là một chìa khóa quan trọng để đảm bảo khả năng tồn tại và cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Việc triển khai hệ thống ERP là một hoạt động không thể thiếu trong cuộc đua logistics Việt nam trên thương trường quốc tế. Bằng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng, nghiên cứu này xác định mức độ tác động của các nhân tố đến việc tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong môi trường ERP của các doanh nghiệp logistics tại thành phố Hồ Chí Minh, nhằm tím ra câu trả lời cho những thách thức của môi trường thay đổi liên tục, đồng thời cũng đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm có thể tổ chức hiệu quả hệ thống thông tin kế toán trong môi trường ERP của các doanh nghiệp logistics tại thành phố Hồ Chí Minh.
-
PublicationNhân tố ảnh hưởng việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ chữ ký số( 2019)
;Lưu Chí Danh ;Hạp Thị Như ChiNguyễn Thị ThuBài viết xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ chữ ký số trong giao dịch điện tử của các doanh nghiệp tại TPHCM, từ đó đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khi doanh nghiệp lựa chọn dịch vụ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 5 nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nhà cung cấp tại TPHCM, đó là: hình ảnh nhà cung cấp, năng lực phục vụ, giới thiệu từ người khác, chi phí dịch vụ và lợi ích dịch vụ. Trong đó, nhân tố năng lực phục vụ có tác động mạnh mẽ nhất đến sự lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ chữ ký số. Vì vậy, các nhà cung cấp cần chú ý nhiều đến yếu tố này nhằm thỏa mãn sự hài lòng của khách hàng -
PublicationNhân tố ảnh hưởng việc lựa chọn công ty kiểm toán của doanh nghiệp tại Tp. HCM( 2019)
;Lưu Chí Danh ;Võ Nguyên PhươngTrần Đình TiếnMục tiêu của bài viết là xác định, đo lường các nhân tố tác động đến việc lựa chọn dịch vụ kiểm toán (DVKT) của các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), thông qua việc khảo sát 325 người hiện đang là chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành, giám đốc tài chính, kế toán trưởng… tại 138 doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, cả bốn nhân tố giá phí dịch vụ, tâm lý, chất lượng dịch vụ và lợi ích đều có tác động đến sự lựa chọn đơn vị cung cấp DVKT. Tác giả cũng đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp các công ty kiểm toán hiểu rõ được yêu cầu, mong muốn của khách hàng, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ, khả năng cạnh tranh, góp phần phát triển ngành kiểm toán Việt Nam trong tương lai.